Ngày 10/12, tại TP.HCM, Vụ Phát triển Thị trường nước ngoài (Bộ Công Thương) phối hợp với Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam tổ chức Diễn đàn Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ 2025.
Theo Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, 30 năm sau khi bình thường hóa quan hệ (1995 – 2025), hợp tác kinh tế – thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ dựa trên các cột mốc quan trọng: Hiệp định Thương mại song phương năm 2000 (BTA), Việt Nam gia nhập WTO năm 2007, thiết lập Đối tác chiến lược toàn diện năm 2023 và nỗ lực hướng tới Hiệp định Thương mại đối ứng công bằng và cân bằng năm 2025.
Thương mại hai chiều tăng hơn 330 lần, đạt 149,5 tỷ USD năm 2024, thể hiện sự gắn kết sâu rộng của chuỗi cung ứng và vai trò then chốt của thị trường Hoa Kỳ đối với xuất khẩu Việt Nam.

Tại diễn đàn, bà Virginia Foote, Phó Chủ tịch kiêm tổng giám đốc Bay Global Strategy, thành viên HĐQT Amcham Việt Nam, khẳng định Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu rất thành công của Việt Nam. Thời gian qua, rất nhiều công ty Hoa Kỳ và các nhà cung cấp của họ đã đến Việt Nam:
“Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là người tiêu dùng Hoa Kỳ. Việt Nam đã làm cực kỳ tốt. Khi chúng tôi mới bắt đầu công việc ở đây, tôi đã lo ngại rằng người Mỹ sẽ không muốn sản phẩm có dán nhãn ‘Made in Vietnam’, bởi vì tất cả những gì họ biết đến lúc đó chỉ là chiến tranh. Vậy làm thế nào để biến ‘Made in Vietnam’ trở thành biểu tượng của chất lượng và giá trị thay vì gợi nhớ đến chiến tranh? Và điều đó đã diễn ra thực sự rất nhanh chóng”.

Ở góc độ của ngành thuỷ sản, ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, cộng đồng doanh nghiệp thủy sản hiện nay có khoảng hơn 400 doanh nghiệp đang xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Trong 30 năm bình thường hóa quan hệ, kim ngạch xuất khẩu hai chiều đã liên tục tăng. Người tiêu dùng Hoa Kỳ rất ưa chuộng các sản phẩm thủy sản Việt Nam.
Những năm 1995 – 1997, thuỷ sản Việt Nam chỉ xuất khẩu được khoảng 39 triệu USD sang Hoa Kỳ, tuy nhiên giai đoạn 3 năm trở lại đây con số đã lên khoảng 2 tỷ USD. Ở chiều ngược lại, rất nhiều đặc sản thuỷ sản của Hoa Kỳ đã được các doanh nghiệp Việt Nam nhập về và được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng.
“Cộng đồng doanh nghiệp thủy sản cũng như VASEP đánh giá cao mối quan hệ chính trị và thương mại trong lĩnh vực thủy sản đối với Hoa Kỳ. Chúng tôi mong rằng những vấn đề hiện nay đang đặt ra khó khăn cho doanh nghiệp hai phía sẽ sớm được giải quyết thông qua những cuộc trao đổi giữa chính phủ hai bên”, ông Nam kỳ vọng.

Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách đa biên, Bộ Công Thương, nhắc lại thời điểm đầu năm 2025 – khi Việt Nam và thế giới chứng kiến sự thay đổi lớn về chính sách thương mại của Hoa Kỳ: “Chúng ta đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khi lần đầu tiên nghe Tổng thống Trump công bố mức thuế đối ứng 46% và khi đạt được thỏa thuận tạm thời về mức thuế đối ứng giảm xuống 20%”.
Ông Khanh cho rằng đây là thời điểm quan trọng, có thể nói là quyết định để nhìn lại năm 2025 và định hướng chính sách từ năm 2026, không chỉ ở cấp độ Chính phủ mà cả ở cấp độ doanh nghiệp.
Cùng với những thách thức, đây cũng là giai đoạn mở ra một cơ hội mới khi Việt Nam và Hoa Kỳ đang tiếp tục nỗ lực để nâng tầm quan hệ thúc đẩy hợp tác kinh tế cân bằng, bền vững và cùng có lợi.
Tại diễn đàn, TS. Trần Toàn Thắng, Viện chiến lược và chính sách kinh tế – tài chính đã phân tích 4 kịch bản khác nhau của thuế đối ứng Hoa Kỳ với Việt Nam.
Theo đó, kịch bản A: tất cả hàng hóa chịu mức thuế đối ứng 20%.
Kịch bản B: Đa số hàng hoá chịu mức thuế 20%, các hàng hoá bị điều tra là có chuyển tái sẽ chịu mức thuế 40%, những ngành có nguy cơ lớn nhất gồm đồ gỗ, dệt may, da giày, pin năng lượng.
Kịch bản C: Đa số hàng hoá chịu mức thuế 20%, một số mặt hàng nông sản và công nghệ chiến lược có thể hưởng thuế 0% nhờ những kết quả đàm phán tích cực từ Hiệp định thương mại đối ứng, công bằng và cân bằng ký ngày 26/10.
Kịch bản D: Hàng hóa Việt Nam không chỉ chịu thuế đối ứng và chuyển tải, mà cả thuế trừng phạt theo các mục 232 và 301 của Mỹ, với giả định đồ gỗ và thép sẽ bị áp thuế lên tới 50%.

Đánh giá theo mức độ rủi ro với một số ngành, ông Thắng cho rằng nhóm ngành có rủi ro cao bao gồm gỗ nội thất, điện mặt trời, điện tử, thép. Các mặt hàng này đối mặt với nguy cơ bị loại khỏi thị trường ngay lập tức thông qua thuế chống lẩn tránh và các hạn chế an ninh quốc gia.
Nhóm rủi ro trung bình bao gồm dệt may, thủy sản, chế biến thực phẩm, dịch vụ kỹ thuật số. Nhóm này chịu ảnh hưởng bởi các cuộc kiểm toán tuân thủ, quy định lao động cưỡng bức và thuế trả đũa tiềm tàng.
Các ngành rủi ro thấp bao gồm nông nghiệp và hàng công nghệ chiến lược. Chuyên gia cho rằng nhóm này vẫn tương đối an toàn nhờ nhu cầu kém co giãn của Hoa Kỳ, mặc dù không hoàn toàn miễn nhiễm với các cú sốc hệ thống.
Về khả năng tác động của chính sách thuế đối ứng đối với nhóm FDI, trong bối cảnh 75% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ là do các doanh nghiệp FDI thực hiện, bao gồm cả các tập đoàn lớn của Mỹ như Intel, Nike, Apple, ông Thắng đánh giá có nhiều yếu tố tích cực, như việc Chính phủ Việt Nam đang tích cực làm việc và đối thoại với các doanh nghiệp FDI lớn để trấn an và hỗ trợ. Bên cạnh đó, một số nhà đầu tư vẫn tỏ ra lạc quan về tiềm năng dài hạn của Việt Nam.

“Đặc biệt, tình hình thu hút FDI từ đầu năm đến nay vẫn tích cực. Các doanh nghiệp FDI hiện diện ở Việt Nam vẫn tiếp tục mở rộng đầu tư trong năm nay, điều này cho thấy họ đánh giá tích cực môi trường đầu tư của Việt Nam, dù trong bối cảnh áp lực về thuế đối ứng”, ông Thắng nhìn nhận.
Gợi ý cho các doanh nghiệp Việt Nam, bà Virginia Foote nhấn mạnh, việc hiểu rõ chuỗi cung ứng là cực kỳ quan trọng và cần phải có đầy đủ giấy tờ để chứng minh điều đó.
“Không công ty nào dễ dàng hay nhanh chóng di chuyển chuỗi cung ứng trong thời điểm khó đoán định như thế này, nhưng các công ty đang tìm cách đảm bảo chuỗi cung ứng của họ có giá trị và bền vững.Việt Nam đã chứng tỏ mình là một đối tác dài hạn, vì vậy quý vị cần duy trì vị thế đó”, bà Virginia Foote lưu ý.
Với Chính phủ, bà Virginia Foote kiến nghị cần đẩy mạnh xây dựng hạ tầng mềm, bên cạnh những hạ tầng cứng như nước sạch, không khí sạch… Ngoài ra, cần giảm bớt thủ tục hành chính và thủ tục pháp lý càng sớm càng tốt.
“Doanh nghiệp FDI cũng nhìn vào các chính sách thuế quan, nhưng đó không phải lý do chủ chốt họ đến Việt Nam hoặc họ mua hàng từ phía Việt Nam. Họ nhìn nhận rằng là Việt Nam là một nơi ‘đất lành chim đậu’, rất tốt cho đầu tư, xây dựng đối tác, xây dựng tương lai ở đây”, vị chuyên gia cho biết.
M.Thanh







