Ngày 17/11, tại diễn đàn “Phát triển Logistics xanh hướng tới chuỗi cung ứng bền vững cho sản phẩm nông sản và dược phẩm xuất nhập khẩu – Kết nối hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm giữa Australia và Việt Nam”. Diễn đàn do Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam phối hợp tổ chức, với sự tài trợ từ Đại sứ quán Australia thông qua chương trình Australia cùng Việt Nam phát triển nguồn nhân lực (Aus4Skills).
Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26), Việt Nam và Úc là hai trong số gần 150 quốc gia đã cam kết sẽ không còn phát thải khí nhà kính vào năm 2050. Để thực hiện được các cam kết, tuyên bố trong hội nghị, hoạt động logistics xanh được coi là một trong các xu hướng và nhu cầu tất yếu.
Trong phần phát biểu chào mừng, Ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập Khẩu, Bộ Công Thương. nhấn mạnh, Diễn đàn lần này sẽ giúp thúc đẩy mối quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa Việt Nam và Úc bằng cách tạo cơ hội cho việc trao đổi kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi từ những thành công trong lĩnh vực logistics. Diễn đàn này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động logistics và tối ưu hóa chuỗi giá trị hàng hóa trong lĩnh vực xuất nhập khẩu giữa hai quốc gia, đồng thời tăng cường tính kết nối giữa các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp của Việt Nam và Úc. Hệ thống logistics cần được phát triển không chỉ để đảm bảo sự an toàn và hiệu quả trong vận chuyển các loại sản phẩm này mà chúng ta cần hướng tới logistics xanh và bền vững.
Bà Cherie Anne Russell, Tham tán phát triển, Đại sứ quán Úc tại Việt Nam, chia sẻ, Cả hai quốc gia đều hướng đến thúc đẩy thương mại và đầu tư, với thương mại hai chiều đạt mức tăng trưởng kỷ lục. Logistics xanh được coi là xu hướng tương lai, phản ánh trách nhiệm tích cực của doanh nghiệp và nâng cao độ cạnh tranh. Nông nghiệp và công nghiệp dược phẩm của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ do tăng thu nhập bình quân và sự phát triển kinh tế.
Đồng quan điểm, ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, cho biết hai bên đang nỗ lực thúc đẩy chuyển đổi xanh trong lĩnh vực logistics phục vụ xuất nhập khẩu. Hệ thống logistics được phát triển không chỉ để đảm bảo sự an toàn và hiệu quả trong vận chuyển mà còn thúc đẩy tăng trưởng của nông sản và dược phẩm trên thị trường của cả hai quốc gia.
Ông cũng chia sẻ về cam kết chiến lược của VLA trong việc thúc đẩy các hoạt động thiết thực của Dự án phát triển ngành dịch vụ Logistics Việt Nam thông qua hợp tác với Aus4Skills, bắt đầu từ năm 2017.
Số liệu từ Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics Việt Nam (VLI) cho biết xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam sang Úc đạt mức tăng trưởng trung bình 11%/năm trong giai đoạn từ 2018 – 2022. Riêng năm 2022, lượng lớn sản phẩm nông nghiệp bao gồm gạo, tiêu, cà phê và hạt điều đã được xuất khẩu sang thị trường này. Tỷ lệ tăng trưởng trung bình của giá trị xuất khẩu đạt 6,8%.
Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Hồ Thị Thu Hòa, Viện trưởng VLI, nghiên cứu khảo sát từ chủ sở hữu hàng hóa (CO) và nhà cung cấp dịch vụ logistics (LSP) cho thấy, trong lĩnh vực logistics xanh cho sản phẩm nông nghiệp, doanh nghiệp cam kết mạnh mẽ và hơn 44% đánh giá rất tốt, 25% đánh giá tốt, doanh nghiệp nông nghiệp và nhà cung cấp dịch vụ logistics đều chủ động thực hiện chính sách và quy trình xanh. Tuy nhiên, hiện đang có những khó khăn đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics xanh, cụ thể về chi phí và rào cản thể chế quy định trong chính sách của chính phủ Úc, tiêu chuẩn kỹ thuật…
Do đó, để cải thiện hiệu suất xuất khẩu, Viện trưởng VLI cho rằng doanh nghiệp cần tăng cường kiểm soát chất lượng, đào tạo nhân viên, đảm bảo chất lượng sản phẩm và thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp. Song song đó, cần cải thiện cơ sở hạ tầng logistics, tăng cường vận chuyển thân thiện với môi trường và kết nối giữa các tổ chức để thúc đẩy phát triển logistics xanh cho sản phẩm nông nghiệp tại Việt Nam.
“Doanh nghiệp cần có sự kiểm soát mạnh mẽ hơn từ vùng trồng, theo đó xanh từ sản xuất, trồng trọt, đến bảo quản… Bên cạnh đó, doanh nghiệp đặc biệt nhấn mạnh tới nhân lực cho logistics xanh. Smart logistics và các phần mềm liên quan quản trị có thể giúp giảm thiệt hại tối đa và quản lý nhân lực tối ưu hơn, giảm sự thủ công của nhân lực để hướng tới logistics xanh, qua đó giúp doanh nghiệp nông sản đưa sản phẩm vào thị trường Úc và các thị trường khó tính khác”, bà Thu Hòa chia sẻ.
Tương tự, ông Craig Luxton, Giám đốc Công ty Luxton & Co, cũng chỉ ra các rào cản đối với logistics xanh đó là sự phụ thuộc nặng nề vào nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là trong lĩnh vực vận chuyển và đóng gói. Sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng, các trạm sạc ô tô điện hoặc bơm hydro không đủ để hỗ trợ mạng lưới giao hàng không phát thải rộng rãi. Chi phí đầu tư cho chuyển đổi logistics xanh ban đầu cao cũng là một rào cản đáng kể.
Đối với dược phẩm, ông Craig Luxton cho biết việc nhận thức về yêu cầu đặc biệt của sản phẩm dược khiến cho việc thiết kế chuỗi cung ứng xanh trở nên phức tạp, tuy nhiên điều này rất quan trọng, bao gồm hiểu rõ về nhu cầu lưu trữ đặc biệt của dược phẩm như kiểm soát nhiệt độ để bảo quản hiệu suất và giảm lãng phí do thời hạn sử dụng ngắn…
Do đó, để thiết kế và vận hành logistics xanh trong xuất nhập khẩu dược phẩm, các bên liên quan phải hợp tác chặt chẽ với nhau. Nhà cung cấp đảm bảo có nguồn nguyên liệu bền vững, đối tác logistics có kế hoạch tối ưu hóa tuyến đường vận chuyển. Đồng thời, các mắt xích trong chuỗi cung ứng phải ứng dụng phân tích dữ liệu để dự báo tốt hơn, đầu tư vào công nghệ chuỗi lạnh tiết kiệm năng lượng, khám phá blockchain trong việc theo dõi và tăng tính minh bạch trong chuỗi cung ứng.
“Việt Nam có thể áp dụng các thực hành tương tự, tuy nhiên nên được điều chỉnh sao cho phù hợp với điều kiện thực tế”, ông Craig Luxton nhấn mạnh.
Ths. Phan Huy Đức – Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Giao thông Vận tải TP Hồ Chí Minh nhận định, Việt Nam – một trong 6 nước chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, đang thực hiện chiến lược phát triển bền vững và cam kết tại COP26. Áp lực xanh hóa chuỗi cung ứng, đặc biệt là với nền kinh tế xuất khẩu, cùng với nhận thức về tác động ô nhiễm lớn từ hoạt động logistics, đã thúc đẩy nhu cầu phát triển nhanh và bền vững.
Ths. Phan Huy Đức nhấn mạnh, quan điểm phát triển của Việt Nam tập trung vào sự kết hợp giữa khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trong đó chuyển đổi số được xem là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển bền vững.
Trong tham luận “Vai trò của Hiệp định Thương mại Tự do và Chuyển đổi Xanh trong thúc đẩy tăng trưởng Xuất – Nhập khẩu giữa Việt Nam – Australia”. Bà Phùng Thị Lan Phương – Chuyên gia Thương mại quốc tế, Nguyên Trưởng phòng FTA, Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã trình bày nhiều thông tin quan trọng về ý thức và hành vi của người tiêu dùng, cũng như các chính sách và cam kết của Việt Nam trong việc thúc đẩy phát triển bền vững và chuyển đổi xanh. Cụ thể 90% người tiêu dùng Việt Nam ủng hộ các doanh nghiệp đạo đức và có trách nhiệm xã hội, đồng thời 43% họ đánh giá cao nhãn hàng và doanh nghiệp thân thiện với môi trường.
Hoàng Sung – Mỹ Thanh